fbpx
Friday, April 26, 2024
HomeTài liệu luyện thiMôn VănBình giảng bài thơ "Thu vịnh" (Nguyễn Khuyến)

Bình giảng bài thơ “Thu vịnh” (Nguyễn Khuyến)

Đề bài: Bình giảng bài thơ “Thu vịnh” của Nguyễn Khuyến.

Bài làm

Nguyễn Khuyến có nhiều bài thơ thu viết bằng chữ Hán và chữ Nôm. “Thu vịnh” là một trong ba bài thơ Nôm nổi tiếng: “Thu điếu”, “Thu ẩm” và “Thu vịnh”. Chùm thơ này đã đưa Nguyễn Khuyến lên vị trí hàng đầu trong các nhà thơ viết về mùa thu của quê hương, làng cảnh Việt Nam.

Đáng lưu ý là các chi tiết trong bài thơ này đều rút ra từ cảnh vật quen thuộc nơi quê hương tác giả. Vùng đồng chiêm trũng một năm chỉ làm được một vụ, còn toàn là ngập nước. Trong làng vô số ao chuôm với những bờ tre quanh co bao bọc những mái tranh nghèo. Mở đầu là cảnh bầu trời bao la, bát ngát:

“Trời thu xanh ngắt mấy từng cao

Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu”.

Nền trời thu xanh ngắt là xanh mà có chiều sâu. Mấy từng cao là rất cao, tưởng tượng thấy nhiểu lớp, nhiều tầng nối tiếp nhau cao. Trời thu không mây, xanh thăm thẳm và rộng không cùng. Trên cái nền ấy nổi bật lên hình ảnh thanh tú sinh động của cần trúc (cây trúc non dáng cong cong như chiếc cần câu) đang đong đưa khe khẽ trước gió thu. Gió hắt hiu là gió nhẹ và như chứa chất gì đó bên trong. Tất cả đều như có một mối cảm thông thầm lặng, sâu kín, rất êm, rất nhẹ, tinh tế và khó nắm bắt… Cái động của “cần trúc” càng làm tăng thêm cái thinh lặng, sâu thẳm của màu trời. Màu trời như dồn tất cả cái sâu lắng vào bên trong của “cần trúc “, để cho nó vừa đủ đong đưa mà cũng vừa đủ đứng yên. Đó là cái động và cái tĩnh trong nhau của mùa thu.

Hai câu đề chấm phá hai nét cảnh thu đơn sơ, thanh thoát nhưng nhịp nhàng với tâm hổn tác giả. Trong đó, mọi chi tiết, sắc màu, đường nét, cử động đều hài hoà, giao cảm với nhau. Mới nói đến trời thu nhưng đã chứa cả hồn thu trong đó.

“Nước biếc trông như từng khói phủ

Song thưa để mặc bóng trăng vào”.

“Nước biếc” là màu nước đặc trưng của mùa thu. Khí trời mùa thu se lạnh. Lúc sáng sớm hay lúc hoàng hôn, nước trong ao hồ thường được phủ lên một lớp sương mỏng xa trông như khói. Ở đây, cảnh mặt nước khói sương ấy qua tâm hồn Nguyễn Khuyến đã thành một dáng thu ngâm vịnh. “Từng khói phủ” không như “làn khói phủ “. Khói đã trở nên dày hơn, nhiều lớp hơn, có chiều cao, có độ sâu, như có gì chứa chất, và cái đó được phủ lên, trùm lên, che khuất vào trong. “Nước biếc ” có “từng khói phủ” là nước không còn màu biếc nữa, lẫn vào làn khói lam mờ, hoá mông lung, huyền ảo. Đó là dáng thu trên mặt đất, sau dáng thu ở bầu trời.

“Song thưa” gợi ý nhẹ, thanh, cởi mở. “Bóng trăng” vào qua “song thưa” để ngỏ thì “bóng trăng” trở nên mênh mông hơn, thoải mái hơn. Nhưng tất cả đều lặng lẽ và bên trong cái im lìm ấy lại là cái gì đang chờ đợi, đang sắp sửa. Nếu ở câu trên là một trạng thái có chiều cao, có độ sâu, trùm lên, phủ lên thành một khối, một thể tích gì đấy, thì ở câu này lại là một trạng thái mở ra, tràn vào, bày ra một bề rộng, một cái diện. Cái diện ấy, mặc dù hình như bị giới hạn bởi cửa sổ “song thưa”, nhưng vẫn có mênh mông ở bên trong, ở tinh thần và âm điệu… Song dù khối hay diện cũng đều lặng yên, chất chứa suy tư.

Cảnh vật trong bốn câu thơ đầu dường như không cùng trong một thời điểm. Nhìn thấy cảnh trời xanh, “cần trúc lơ phơ” là lúc đang trưa. “Nước biếc” có sương khói phủ là lúc hoàng hôn và bóng trăng tràn qua song cửa là lúc trời đã vào đêm… Cảnh trí được vẽ ra liên tục nhưng không cùng một thời điểm, một không gian. Có điều, mối dây liên kết tất cả lại là tâm tình thống nhất của tác giả.

Ngòi bút theo chiều tâm tư nhà thơ mà chọn mấy nét cảnh vật kia. Tuy khác nhau nhưng hình như đều cùng nhất trí gợi lên một trạng thái lặng yên, nhiểu cảm thông và ẩn giấu vào bên trong. Đó là tâm tư tác giả, là linh hồn của mùa thu.

Tâm trạng ấy chi phối tiếp cách nhìn, cách nghĩ của Nguyễn Khuyến:

“Mấy chùm trước giậu, hoa năm ngoái

Một tiếng trên không, ngỗng nước nào?

Sau khi nhìn mặt nước phủ sương, nhìn ánh trăng vào cửa sổ, nhà thơ trông ra bờ giậu ngoài sân. Ở đó, lác đác mấy chùm hoa. Và nhà thơ bỗng dưng thấy… đó là “hoa năm ngoái”.

Trên kia cảnh vật mới là qua con mắt nhìn, chừng nào còn khách quan, đến đây trái tim xúc cảm đã can thiệp vào cảnh vật và cảnh vật khoác thêm màu sắc chủ quan của tác giả. Hoa trước mắt, năm nay hẳn hoi mà cảm thấy là… “hoa năm ngoái”. Điểu gì đã xảy ra trong lòng người? Con người đang ở trong hiện tại mà như lùi về quá khứ hay quá khứ hiện về trong thực tại?

Âm điệu câu thơ theo nhịp 4/1/2: Từ “Mấy chùm trước giậu” đến “hoa năm ngoái” có một đoạn ngẫm nghĩ trong lòng nhà thơ, một đoạn suy tư và sau đó đột nhiên xuất hiện cảm giác “hoa năm ngoái” chứ không phải là hoa năm nay. Cảm giác ấy khiến nhà thơ nghe tiếng ngỗng trên không vẳng xuống mà băn khoăn tự hỏi “ngỗng nước nào?” Mặc dù tiếng ngỗng ấy đã trở nên quen thuộc mỗi độ thu về.

Nếu như trong bốn câu thơ trên, cảnh vật hài hoà, cảm thông nhau trong một nỗi niềm u uất, thì ở đây, con người hài hoà, cảm thông với cảnh vật. Cảnh vật thể hiện tâm tư con người và con người thể hiện lòng mình trong cảnh vật. Như vậy, cảnh vật không chỉ ở con mắt nhìn mà còn ở trái tim rung cảm của nhà thơ. Nhìn mùa thu, nhìn hoa trước sân, nghe tiếng chim trên trời vẳng xuống mà nổi dậy cả một niềm xót xa, lặng lẽ mà như nẫu ruột, chết lòng. Chiều sâu của tâm hồn người lắng vào chiều sâu của câu thơ là vậy.

Trước cảnh thu, hồn thu, cảm hứng thơ trỗi dậy khiến nhà thơ “toan cất bút”, nhưng nghĩ đi nghĩ lại, lại thấy “thẹn với ông Đào ” nên đành thôi.

“Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,

Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”,

Nhà thơ “thẹn” nỗi gì vậy? “Thẹn” vì tài thơ thua kém Đào Tiềm hay là mình chưa có được nhân cách cứng cỏi, khí phách như ông?

Logic bài thơ là từ cảnh đến tình, từ tình đến người. Lời thơ trong câu kết có cái gì đó lửng lơ mà kín đáo. Câu thơ do đó càng làm tăng thêm chất suy tư, nhịp nhàng trong cả bài thơ.

Tác giả miêu tả cảnh thu ở quê hương mình, từ màu trời, ngọn trúc, mặt nước, ánh trăng đến chùm hoa trước giậu, tiếng ngỗng trên không… để đi đến cảm xúc đầy suy tư chất chứa trong cảnh vật. Thông qua đó, nhà thơ gửi gắm tâm trạng xót xa trước cảnh đất nước đã rơi vào tay giặc, quá khứ tốt lành không còn nữa mà mình thì thương đau, bất lực.

“Thu vịnh” là một bài thơ hay. Nó góp phần làm nên tình yêu quê hương đất nước trong thơ Nguyễn Khuyến, cụ thể là tình yêu thiên nhiên thôn dã mà chất chứa ân tình. Trình độ nghệ thuật của bài thơ đã đạt đến mức tinh vi, cổ điển, không dễ mấy ai sánh được.

Comments

comments

RELATED ARTICLES

18 COMMENTS

Comments are closed.

Most Popular