BÀI LÀM
Bà cụ Tứ vốn là một người nông dân từng trải, trung hậu. Cụ xuất hiện muộn nhất trong tác phẩm nhưng lại là nhân vật kết đọng những giá trị về tình người, về đạo lý. Thiếu nhân vật này, tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân sẽ thiếu hẳn sức nặng.
Mở đầu, hình ảnh bà cụ Tứ xuất hiện với cái dáng “lọng khọng”, với tiếng ho “húng hắng” từ ngõ vọng vào. Hai từ láy, một hình tượng và một tượng thanh, đã phần nào khắc họa được hình ảnh một người mẹ nghèo khổ, lam lũ, cơ cực, bị gánh nặng cuộc đời đè nặng thêm mãi tưởng chừng không bao giờ dứt. Tâm trạng củabà cụ Tứ là vô cùng ngạc nhiên khi nhìn thấy một người đàn bà ở đầu giường con trai mình: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong nhà nhỉ….Sao lại chào mình bằng u…Ai thế nhỉ…Ô hay, thế là thế nào nhỉ?”. Cái đói đã đánh mất sự nhạy cảm vốn có của người mẹ này. Thậm chí Tràng đã phải nhắc đi nhắc lại thì bà cụ Tứ “im lặng”. Cái im lặng của một người đã trải qua biết bao cái đau khổ túng quẫn của đời, cái thấm thía cho cảnh ngộ, cái chấp nhận cho người đàn bà xa lạ kia và cả nỗi xúc động đến nghẹn lời.
Nếu tâm trạng của tràng chỉ phát triển theo đường thẳng, từ đầu đến cuối tác phẩm chỉ là những cung bậc cảm xúc thì ở bà cụ Tứ, tâm trạng phức tạp hơn, tủi thân. Làm người mẹ, cụ biết trách nhiệm của mình đối với con” người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì…”. Riêng suy nghĩ đó đã gợi ra cả một kiếp người và cả một hoàn cảnh éo le mà bà cụ Tứ đã và đang trải qua. Cụ tủi phận mình rồi thương con để, thương đến cả con dâu. Lòng bao dung đã khiến cụ nhận ra cảnh ngộ và duyên cớ khổ này, người ta mới theo đến con mình”. Nếu người dân xóm ngụ cư thấy thị là món nợ đèo bòng, bà cụ Tứ cũng có giây phút nghĩ đến nhà thêm một miếng ăn nhưng cảm xúc chủ đạo mà bà dành cho người vợ của Tràng là sự “thương xót:, thông cảm, và không hề xa lánh. Câu nói của bà vàng lên là tiếng lòng của một người mẹ: “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Những dòng nước mắt xót xa cứ lăn dài trên mắt chảy xuống ròng ròng”. Bởi bà cụ nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út, nghĩ đến cuộc đời khổ cực của mình, nghĩ đến tương lai của con trai và con dâu….và chẳng thể thoát ra khỏi không khí chế chóc đang bủa vây xung quanh.
Việc Tràng nhặt được vợ vừa là nỗi buồn rầu lo lắng, vừa là vui mừng của bà lão tội nghiệp này. Hạnh phúc cũng hồi sinh nơi bà cụ Tứ, gương mặt “tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ lên hẳn. Bà lão xăm xắn thu dọn quét tước nhà cửa”. Sự hớn hở và ý thức về một cuộc sống mới không chỉ có ở đôi vợ chồng trẻ mà còn hiện diện trên gương mặt và điệu bộ xăm xắn của bà. Đến bữa ăn, bà cụ Tứ nói toàn truyện vui, chuyện sung sướng về sau này. Cụ cố giấu cái lo, động viên các con “Nhà ta thì còn nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông trời cho khá…Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì thì con cái chúng mày về sau”. Bà cụ cố khơi lên niềm vui từ nồi cháo cám. Nồi cháo cám là sự gắng gỏi của người mẹ phụ thêm vào xuất ăn ít ỏi của mỗi người, là biểu hiện của tình yêu thương ở người mẹ đối với những đứa con của mình. Hãy nghe người mẹ nói: “chè đây – Bà lão múc ra một bát – chè khoai đây, ngon đáo để cơ”. Chữ “ngon” này cần phải cảm thụ một cách đặc biệt: niềm tin về hạnh phúc của con biết đắng chát thành ngọt ngào. Chi tiết nồi cháo cám là điều mà nhà văn Kim Lân muốn gửi gắm đến người đọc một thông điệp: dù dói khát khốn cùng đến đâu, con người cũng sẽ không bao giờ đánh mất cái chất người của mình. Họ muốn sống cho ra sống, và còn sống là còn lạc quan, như dân tộc ta ngàn đời nay luôn lạc quan mà tiếp vậy: “Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà nghĩ đến cái sống”. Chỉ đến khi tiếng trống thuế vang vọng vào bữa ăn, bà cụ Tứ mới thốt lên tâm trạng thực của mình: “Giời đất này không chắc đã sống qua được đâu các con ạ”.
Qua diễn biến tâm trạng của bà cụ tứ. Chúng ta có thể nhận thấy biệt tài phát hiện và miêu tả tâm lí một cách chân thật và sâu sắc của Kim Lân. Nhà văn không chỉ khắc họa tâm trạng ấy thông qua hành động, lời lẽ, cử chỉ bền ngoài mà còn nhập thân vào nhân vật. Nhờ vậy, hình ảnh bà cụ Tứ hiện lên chân thực hơn. Trong quá trình tâm lí ở cụ Tứ có phần phức tạp hơn nhân vật Tràng, tâm lí vận động theo chiều gấp khúc hợp với những nỗi niềm trắc ẩn trong chiều sâu riêng của người già từng trải và nhân hậu.
Thể hiện thành công diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ, Kim Lân đã bộc lộ niềm cảm thông sâu sắc trước cuộc đời những người bất hạnh. Nhà văn cũng trân trọng, nâng niu từng vẻ đẹp tâm hồn của họ. Điều này có tác dụng to lớn, khắc họa rõ nét chủ đề của tác phẩm: cho dù phải sống trong một tình thế hết sức bi đát, bà cụ Tứ nói riêng và những người lao động nói chung vẫn hướng đến tương lai, vẫn khát khao một mái ấm gia đình. Giá trị nhân đạo toát lên từ người gắn bó bao bọc lẫn nhau trong hoàn cảnh khốn cùng ấy.