fbpx
Home Tài liệu luyện thi Môn Văn Phân tích nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia đình” – Bài 2

Phân tích nhân vật Việt trong “Những đứa con trong gia đình” – Bài 2

0

Đề bài: Phân tích nhân vật Việt và chỉ ra những nét đặc sắc về nghệ thuật trong truyện “Những đứa con trong gia đình” của nhà văn Nguyễn Thi

Bài làm

Nguyễn Thi là nhà văn Quân đội đã anh dũng hi sinh tại mặt trận Sài Gòn năm 1968. “Truyện và kí” xuất bản 1978 là tuyển tập của Nguyễn Thi, trong đó có truyện “Những đứa con trong gia đình” được ông viết vào tháng 2 nãm 1966. Bên cạnh những nhân vật như má Tư Năng, chú Năm, chị Chiến, còn có nhân vật Việt được tác giả xây dựng khá thành công, tiêu biểu cho một đứa con tốt đẹp của gia đình, một chiến sĩ quả cảm, anh hùng của quê hương. Tác phẩm này đã cho thấy một số nét đặc sắc về nghẹ thuật viết truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thi.

Việt là một chàng trai có tâm hồn trong sáng và hồn nhiên yêu đời. Hai gò má thì “căng mướt” như da trái vú sữa. Nụ cười thì “lỏn lẻn”. Việt là em ruột của chị Chiến, là con trai thứ hai của má Tư Năng. Chiếc ná thun bằng nạng ổi “láng o” đã gắn bó với tâm hồn Việt. Thuở nhỏ, Việt để đầu trần, lội tắt trong vườn, xách ná thun đi bắn chim. Lớn lên đi làm, cái ná thun lại giắt gọn sau lưng quần. Lúc trở thành một chiến sĩ Giải phóng quân, cầm súng tự động, đánh Mĩ bằng lô, thì cái ná thun vẫn còn nằm gọn trong túi áo của Việt. Chiếc ná thun là kỉ vật tuổi thơ, là một phần đời thân thiết của chú. Việt đã dùng nó đi gác, bắn “chóc… bịch!” báo tin cho các cô, các chú cán bộ ở trong nhà xuống hầm bí mật khi bọn lính giặc kéo tới.

Việt là một chú bé “hiếu thắng” hay tranh giành với chị Chiến. Từ chuyện bắt ếch, chuyện bắn tàu chiến Mĩ trên sông Định Thủy đến chuyện ghi tên tòng quân, Việt đều tranh giành với chị. Vốn được má cưng chiều, biết chị hay nhường nhịn, nên chú mới hay tranh giành như thế. Đó là một nét tâm lí dễ thương của tuổi thơ hồn nhiên.

Việt quý mến tin cậy đồng đội biết bao, nhất là anh Tánh, anh Công… nhưng Việt không cho ai biết là chú có chị gái tên là Quyết Chiến, tiểu đội trưởng của bộ đội nữ địa phương quân Bến Tre. Việt giấu chị như giấu của riêng vậy, vì cậu ta “sợ mất chị mà”. Khi Việt đã có hai tuổi quân, đã từng trải qua những trận đánh dữ dội, những cuộc đọ lê ác liệt với giặc Mĩ, chú ta không sợ giặc, không sợ chết mà lại sợ ma. Bị lạc đơn vị, bị thương nằm một mình giữa chiến trường, chú “nằm thở dốc” khi chợt nhớ tới con ma cụt đầu, thằng chỏng thụt lưỡi mà các chị vẫn kể hồi ở nhà…

Cái đêm trước lúc hai chị em ra trận, chị Chiến bàn với cậu em trai thu xếp việc gia đình. Việt phó thác hết mọi chuyện cho chị gái, chỉ ậm ừ cho xong chuyên, “rồi ngủ quên lúc nào không biết”. Thật là vô tư và hồn nhiên.

Việt là một con người có một trái tim giàu tình yêu thương. Bị thương nặng, nằm giữa chiến trường, Việt ngất đi mê man rồi lại tỉnh, tỉnh rồi lại mê đến ba bốn lần. Chú nhớ má, nhớ câu chuyện của má thời con gái, nhớ đôi mắt “sắc ánh lên” của má khi má đứng trước mũi súng quân giặc, nhớ kỉ niệm đau thương mấy chị em theo má lên tới quận đòi “trả đầu ba”. Việt nhớ “cái gáy đo đỏ và đôi vai lực lưỡng” của má lúc chèo xuồng, nhớ tiếng gọi đầy yêu thương của má: “Việt à, ra phụ má nghe con!”. Có nhiều đêm má đi làm thuê đến canh hai mới về, Việt tỉnh giấc “ngửi thấy mùi gạo và mùi mồ hôi của má ngay trên đầu mình”. Sau ngày má mất, nhất là đêm cuối cùng trước lúc đi bộ đội, đom đóm từ ngoài rặng bần kéo vào đầy nhà, Việt cảm thấy “má cũng đã về đâu đây”… Việt cùng chị Chiến khiêng bàn thờ má gửi sang nhà chú Năm, Việt đã hứa với linh hồn má: “Chúng con đi đánh giặc trả thù cho ba má, đến chừng nước nhà độc lập, con lại đưa má về”. Nghe tiếng chân bình bịch của chị Chiến, Việt “thấy thương chị lạ”. Lần đầu tiên, Việt mới thấy lòng mình rõ như thế. Còn mối thù thằng Mĩ thì có thể rờ thấy được, vì nó đang đè nặng ở trên vai. Việt càng yêu thương gia đình sâu nặng bao nhiêu thì chú càng căm thù quân giặc bấy nhiêu, đúng là “Bởi chưng hay ghét cũng là hay thương” !

Thương má, thương chị, Việt nhớ và thương chú Năm vô cùng. Việt nhớ cuốn sổ của chú Năm ghi mọi chuyện “thỏn mỏn” của gia đình, nhớ chú Năm hay bênh Việt, nhớ giọng hò tức và đục như gà gáy của chú. Ọuên sao được câu hò của chú khi chị em Việt khiêng bàn thờ má đi gửi, tiếng hò “cất lên như một hiệu lệnh dưới ánh nắng chói chang, rồi ngắt lại như một lời thề dữ dội”.

Việt là một chiến sĩ Giải phóng quân rất quả cảm, anh hùng. Chú ra trận mang theo sức mạnh truyền thống cách mạng của gia đình, sức mạnh của tình thương ba má…, sức mạnh của lòng căm thù quân xâm lược giày xéo quê hương.

Lúc còn sống, má đã từng nói với Việt: “Để má ráng nuôi bay lớn, coi bây có làm được gì cho cha mày vui không?”. Ý nghĩ “đi trả thù” thôi thúc Việt suốt đêm ngày. Chưa đủ 18 tuổi vẫn xung phong ghi tên tòng quân. Mới được 2 tuổi quân, Việt đã lập chiến công dùng thủ pháo tiêu diệt một xe bọc thép của giặc Mĩ. Bị trọng thương, khắp người “đau điếng, rỉ máu”, đôi mắt sưng lên không nhìn thấy gì hết, mười ngón tay chỉ còn một ngón cái cử động được. Bị lạc đơn vị, đói, khát đã hai ba ngày đêm. Thế nhưng, ba viên đạn còn dưới hộp, một viên đã lên nòng, Việt vẫn day họng súng về phía giặc khi nghe hơi xe bọc thép chạy mỗi lúc một gần. Việt quyết đánh đến viên đạn cuối cùng, đánh đến giọt máu cuối cùng: “Tao sẽ chờ mày! Trên trời có mày, dưới đất có mày, cả khu rừng này còn có mình tao. Mày có bắn tao thì tao cũng bắn được mày”. Việt không thấy đơn độc, anh tin rằng: “Nghe tiếng súng nổ, các anh tao sẽ chạy tới đâm mày!”.

Gặp lại anh Tánh và đồng đội sau 3 ngày đêm bị trọng thương, bị lạc đơn vị một mình nằm giữa chiến trường, tuy đã bị kiệt sức, nhưng Việt vẫn giữ vững tư thế sẵn sàng chiến đấu một mất một còn với quân thù, “ngón tay của cậu vẫn còn nhúc nhích, một viên đạn đã lên nòng và chung quanh cậu, dấu xe bọc thép hằn ngang dọc”. Câu hỏi đầu tiên của Việt là câu hỏi về tin chiến sự. Và Việt đã cười khi nghe anh Tánh báo tin “diệt hết rồi, trận đánh xong rồi, xong rồi…”. Tư thế ấy, nụ cười ấy là những biểu hiện tuyệt đẹp tính cách anh hùng của đứa con trai má Tư Năng.

Cũng như chị Chiến, Việt là một đứa con đã nêu cao truyền thống gia đình, đi tiếp con đường cách mạng của ba má, “một lòng theo Đảng”, hăm hở ra trận với quyết tâm “đi trả thù mà không sợ dài lâu” (Nguyễn Khoa Điềm). Chú Năm dã tự hào nói: “Việt là một thằng nhỏ gan”. Việt đã trở thành câu hò, là hiện thân câu hò của chú Năm: “theo từng câu hò, khi thì Việt biến thành tấm áo vá quàng hoặc con sông dài cá lội của chú, khi thì Việt biến thành người nghĩa quân Trương Định, ngọn đèn biển Gò Công, hoặc ngôi sao sáng ở Tháp Mười”. Việt là niềm tự hào và hi vọng của gia đình, là hình bóng thân thiết của quê hương. Nhân vật Việt tiêu biểu cho tình yêu gia đình, quê hương đất nước, tinh thần chiến đấu quả cảm, khí phách anh hùng của những chàng trai vùng đồng bằng sông Cửu Long thời đánh Mĩ. Nhân vật Việt là một thành công của Nguyễn Thi về nghệ thuật xây dựng nhân vật và miêu tả tính cách anh hùng.

Truyện ” Những đứa con trong gia đình” đã thể hiện tập trung nhất nét đặc sắc nghệ thuật của Nguyễn Thi về kể chuyện, về xây dựng nhân vật, về sử dụng ngôn ngữ.

Truyện được kể theo hồi ức của Việt. Mở đầu truyện, Việt nằm trong bệnh viện dã chiến. Tiếp theo nói về trận đánh lớn giữa đồn điền cao su. Việt lập chiến công to và bị thương nặng, bị lạc đơn vị. Mê rồi tỉnh, tỉnh rồi mê… Việt nhớ lại tuổi thơ, nhớ lại những kỉ niêm về má, về chú, về chị, về đêm ghi tên tòng quân, chuyện gửi bàn thờ má… Cấu trúc truyện rất hiện đại, tạo nên sự đồng hiện về thời gian, không gian (hiện tại, quá khứ, hôm nay và hôm qua, bệnh viện, chiến trường và quê hương), đồng hiện về sự việc, nhân vật, tâm trạng. Mọi tình tiết đan xen, thế mà không rối vẫn hấp dẫn, mạch lạc, chân thực, đó là tài kể chuyên của Nguyễn Thi.

Đặc sắc thứ hai về nghệ thuật là xây dựng tính cách nhân vật. Má Tư Năng, chú Năm, chị Chiến, Việt đều có những nét chung như hồn nhiên, yêu đời, bộc trực, căm thù ngùn ngụt, gan góc, dũng mãnh, yêu nước, yêu gia đình quê hương, sẵn sàng hi sinh vì đại nghĩa, v.v… Nhưng mỗi nhân vật lại có những nét riêng, cá tính riêng. Cuốn sổ tay và giọng hò của chú Năm. Cái nhìn “sắc ánh lên” và câu trả lời: “Vợ Tư Năng đây!”, với cái tư thế hiên ngang của má Việt đứng trước mũi súng giặc. Cái bịt miệng cười, cử chỉ hứ một cái “cóc”, đôi chân đi “bịch bịch” của Chiến. Cái ná thun, cái nụ cười “lỏn lẻn” của Việt, v.v… Đó là những chi tiết nghệ thuật rất cụ thể đã cá thể hóa nhân vật khi khắc hoạ tính cách nhân vật.

Một thành công nữa của Nguyễn Thi là đã vận dụng sáng tạo ngôn ngữ bà con nông dân Nam Bộ trong miêu tả cảnh vật và kể chuyện. Những từ ngữ: trọng trọng, tía, việc thỏn mỏn, kiếng, ná thun, tèm lem, rê thuốc… đã tạo nôn màu sắc và không khí Nam Bộ, đem đến nhiều nhã thú văn chương cho độc giả trên miền Bắc. Ngôn ngữ nhân vật, mộc mạc đậm đà, thể hiện cá tính và tâm lí nhân vật một cách rõ nét. Đây là một câu nói của chú Năm với anh cán bộ Huyện đội trong đêm hội tòng quân: “Tôi xin có một câu nói với đồng chí Huyện đội. Hai đứa cháu tôi nó một lòng theo Đảng như vậy, tôi cũng mừng. Vậy xin trên cứ ghi tên cho cả hai. Việc lớn ta theo việc lớn, còn việc thỏn mỏn trong nhà tôi thu xếp khắc xong”.

Tóm lại, đọc truyện “Những đứa con trong gia đình” nhân vật Việt, một chiến sĩ anh hùng để lại cho ta nhiều yêu mến. Nguyễn Thi là một cây bút giàu bản sắc, ông xứng đáng được tôn vinh là nhà văn của người nông dân Nam Bộ thời đánh Mĩ.

Comments

comments