Đề bài: Phân tích nhân vật Đổng Mẫu qua trích đoạn “ĐổngMẫu” từ Hồi III tuồng “Sơn Hậu”
Bài làm
“Sơn Hậu” là vở tuồng pho nổi tiếng nhất trong kho tàng nghệ thuật tuồng dân tộc. Vở tuồng này có 3 hồi, thường được diễn trong ba đêm liên tiếp. Cuộc đấu tranh giữa hai phe trung thần (Đổng Kim Lân,…) và nghịch tặc (Tạ Thiên Lăng,…) diễn ra vô cùng dữ dội. Lửa cháy rực trời, máu tuôn như suối, tiếng ngựa hí quân reo, tiếng trống trận dội vang như sấm sét… Có biết bao hình tượng kiêu hùng, bi tráng như Khương Linh Tá bị giặc chém rụng đầu vẫn hiên ngang cắp thương, cầm đuốc, phi ngựa; Đổng Mẫu sắp bị bọn phản nghịch thiêu trên giàn lửa vẫn lớn tiếng mắng nhiếc lũ tặc thần, thống thiết khuyên con hãy giữ tròn đạo trung,”hãy phò an nghiệp chúa”.
Hình tượng Đổng Mẫu xuất hiện ở Hồi III vở tuồng “Sơn Hậu” đẹp như một tượng đài tráng liệt về bà mẹ trung nghĩa anh hùng.
Sau khi Đổng Kim Lân và Khương Linh Tá đưa hai mẹ con thứ phi Phàn Phụng Cơ chạy thoát về Sơn Hậu, bốn anh em Tạ Ôn Đình dùng độc kế “bắt hổ mẹ để cầm tù hổ con”, đã bắt Đổng Mẫu nhằm khuất phục Đổng Kim Lân, hòng dụ dỗ lôi kéo về phe cánh mình.
Đoạn tuồng này gồm có hai cảnh: Một, cuộc đối mặt giữa Tạ Ôn Đình với Đổng Mẫu; Hai, cuộc đối thoại giữa mẹ con Đổng Mẫu và Đổng Kim Lân. Xung đột giữa trung thần với nghịch tặc, giữa đạo trung với đạo hiếu diễn ra căng thẳng, tạo nên tính kịch quyết liệt; qua đó, tính cách của các vai tuồng được bộc lộ và thể hiện một cách sâu sắc, đầy ám ảnh.
Đổng Mẫu là một hình tượng vô cùng lẫm liệt, uy nghi, tiêu biểu cho cốt cách và phẩm chất cao quý của một bà mẹ anh hùng, quyết thủ nghĩa xả thân, coi “chữ trung nặng hơn chữ hiếu”.
Hổ Bôn, một tì tướng của Tạ Thiên Lăng đã bắt trói Đổng Mẫu đem dâng nộp cho Tạ Ôn Đình. Các lớp tuồng đầy kịch tính lần lượt diễn ra. Tạ Ôn Đình truyền lệnh cởi trói, trải chiếu cho Đổng Mẫu ngồi, sai quân đem bút chỉ (bút và giấy) cho lão bà viết thư để dụ con trai là Đổng Kim Lân mang quân về Tiểu Giang Sơn hàng phục. Hắn bảo: trong thư phải ghi rõ lợi, hại; nếu đầu hàng họ Tạ (Tạ Thiên Lăng) thì sẽ có công hầu danh vọng; nếu cứ một lòng gánh vác Tề triều thì mẹ già sẽ bị giết hại. Vấn đề danh vọng và tình mẫu tử đã được đặt ra:
“Đầu Tạ thì rạng đeo quyền tước
Danh vọng kia chẳng mất công hầu.
Bằng chấp nê gánh vác Tê triều
Niềm mẫu tử ắt là bị hại”.
Vừa nghe Tạ Ôn Đình nói, Đổng Mẫu vô cùng căm phẫn, bừng bừng lửa dậy…, sùng sục dầu sôi”. Bà gọi Tạ Ôn Đình là “mi”, là “gã” một cách khinh bỉ; lớn tiếng vạch mặt anh em họ Tạ là bất nghĩa, bất trung:
“Ông cha mi hưởng lộc Tề quân
Anh em gã cướp ngôi Thiện đế”
Đổng Mẫu coi Tạ Ôn Đình là kẻ “có học”, nên bà đã lấy sử sách ra dạy bảo, răn đe.
Bà đã nhắc lại gương tày liếp của Hoàng Sào, Vương Mãng: đứa “khởi nguy” thì chết không giữ được thân xác toàn vẹn (chết chẳng toàn thi), đứa “khi quân ” thì chết không có đất chôn (tử vô táng địa).
Đổng Mẫu tự hào về truyền thống gia đình mình, về con cái mình là người có học thức (hiển nhân xử thế), có khí tiết (minh tiết bảo thân); đâu phải là kẻ bất nhân bất nghĩa mà “theo đảng gian thần”, mà “đầu loài sủng nịnh”.
Những lời mắng nhiếc ấy của Đổng Mẫu vừa nêu cao đạo lí trung hiếu vừa vạch mặt chỉ tên kẻ đang đứng trước mặt bà, kẻ đang khuyến dụ bà là lũ phản nghịch bất nghĩa, bất trung vô cùng ghê tởm!
Qua đó, ta cảm phục Đổng Mẫu là một bà mẹ đức độ, một người phụ nữ có học thức sống giữa thời phong kiến loạn lạc. Ngôn ngữ của bà rất biến hoá, lúc thì dân dã dung tục (bay mần chỉ, tao hỏi, ông cha mi, anh em gã,…), lúc thì dùng điển tích trong sử sách, dùng ngôn ngữ, thành ngữ Hán-Việt (Tề quân, Thiện đế, khởi nguy, khi quân, tử vô táng địa, hiển nhân, minh tiết, Hoàng Sào, Vương Mãng,…) – biểu lộ một nhân cách cao cả, đường hoàng, chính trực, uy vũ bất năng khuất!
Đổng Mẫu là một người phụ nữ lẫm liệt, hiên ngang trước kẻ tử thù. sắp bị Tạ Ôn Đình đưa lên giàn hoả thiêu, bà vẫn ung dung vạch trần âm mưu quỷ quyệt của lù phản nghịch bắt bà để “làm bia đỡ đạn”, nhằm lung lạc ý chí bà để bà dụ dỗ Đổng Kim Lân đem quân về đầu hàng anh em họ Tạ.
Khí tiết của bà sáng ngời, tư thế của bà lẫm liệt. Bà coi cái chết nhẹ tựa lông hổng quyết hi sinh để bảo toàn danh tiết:
“Mẹ dù về chín suối
Danh tiết để ngàn thu”.
Biết Đổng Kim Lân rất thương mẹ, lo mẹ bị giết chết, đạo làm con không giữ tròn được chữ hiếu, bà đã sáng suốt khuyên con. Bà khuyên con phải giữ vững ý chí kiên cường của đấng trượng phu, không được đầu hàng giặc Tạ: “Trượng phu đừng thoái chí – Thoái chí bất trượng phu”. Bà khuyên con phải trung quân ái quốc, phải hết lòng vì nước vì vua:
“Con hãy ngay cùng nước cùng vua.
Ấy là thảo với cha với mẹ.
Hãy phò an nghiệp chúa,
Cho rạng tiết nhân thần”.
Đạo làm tôi phải lấy chữ trung làm đầu; đạo làm con phải lấy chữ hiếu làm trọng. Đổng Mẫu tha thiết khuyên con:
“Lấy chữ trung, chữ hiếu cho cân.
Chữ trung ấy nặng hơn chữ hiếu đó con”.
Lời mẹ dặn mới tha thiết và sâu sắc biết bao. Với Đổng Kim Lân thì bài học mẹ dạy về chí trượng phu, về đạo trung hiếu sẽ không bao giờ có thể quên. Vì thế mà Đổng Kim Lân biết nén đau thương, nêu cao dũng khí, mưu trí tìm mọi cách để cứu mẹ già, quyết tâm “phò Tề” kiên cường chiến đấu, nếm mật nằm gai, cuối cùng đã tiêu diệt được bọn phản nghịch Tạ Thiên Lăng, phất cao ngọn cờ chiến thắng trên Tiểu Giang Sơn, làm rạng danh bậc trung thần nghĩa sĩ.
Đổng Mẫu đã bị Tạ Ôn Đình coi là “Tẩn kê tác quái – Thị tử như du” (gà mái làm điều quái gở, coi cái chết như đi chơi), nhưng bà đã quyết noi gương những bậc “tiên thánh” để giữ tròn khí tiết của người mẹ, của người phụ nữ sống trong thời loạn lạc:
“Mẹ Diêu Kì với mẹ Sầm Bành,
Mẹ Từ Thứ, mẹ ngươi Tô Định.
Như bốn ấy là gương tiên thánh,
Để soi cho những kẻ hậu lai..”.
Tóm lại, Đổng Mẫu là một hình tượng điển hình về bà mẹ anh hùng. Bà đã hiên ngang đối mặt với bọn loạn thần tặc tử. Bà đã dũng cảm coi thường cái chết. Khí phách của Đổng Mẫu lẫm liệt vô song. Bà đã nêu cao lòng trung nghĩa. Anh hùng Đổng Kim Lân trong vở tuồng “Sơn Hậu” thật hạnh phúc biết bao, tự hào biết bao vì có người mẹ hiền như Đổng Mẫu.