Đề bài: Hãy bình luận ý thơ sau:
“Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong “
(Hiện đại thi trung ưng hữu thiết,
Thi gia dã yếu hội xung phong).
“Cảm tưởng đọc Thiên gia thi ” – (Hồ Chí Minh)
Bài làm
Chủ tịch Hồ Chí Minh không tự nhận mình là nhà thơ. Trong ngục “Ngục trung nhật kí”, Người nói: “Lão phu nguyên bất ái ngâm thi”, nhưng tập nhật kí bằng thơ này và nhiều bài thơ khác của Hồ Chí Minh cho thấy Người là một nhà thơ lớn của dân tộc.
Người không chỉ làm thơ mà còn nói lên quan niệm của mình về thơ ca và vai trò, sứ mệnh của nhà thơ trong cuộc sống. Bài thơ số 132 “Ngục trung nhật kí” với nhan đề “Cảm tưởng đọc Thiên gia thi” Người có viết:
“Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”
(Hiện đại thi trung ưng hữu thiết,
Thi gia dã yếu hội xung phong).
Bài thơ xuất hiện ở những trang cuối cùng của “Ngục trung nhật kí”, nó như một tổng kết quá trình suy nghĩ về thơ mình, và về thơ của người xưa. “Thiên gia thi” là tuyển tập gồm những bài thơ cổ Trung Quốc từ lâu được công nhận là hay, những bài thơ kiểu mẫu, dễ đọc, dễ nhớ. Bài thơ của Bác nói lên cảm nghĩ của mình sau khi đọc tuyển tập thơ cổ điển ấy. Hai câu đầu, Bác nhận xét về tình yêu thiên nhiên trong thơ xưa. Cái đẹp của thiên nhiên như “Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông” đã được cổ thi “thiên ái” dành cho một vị trí sang trọng. Cái mới của Bác thấy cần phải đưa vào thơ của thời đại mới là chất thép trong thơ. Thép là một ẩn dụ mang hàm nghĩa nói lên tư tưởng, tình cảm tiến bộ, tốt đẹp, là tinh thần chiến đấu, tinh thần cách mạng của thơ hiện đại. Bác nhấn mạnh là “nên có thép”, chứ không phải là thơ “chỉ có thép”. Thơ cần có tính chiến đấu, thơ như một vũ khí, thì nhà thơ thời đại phải là một chiến sĩ đích thực trên mặt trận văn nghệ, văn hoá: “Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.
Tóm lại, hai câu thơ trên nói lên yêu cầu của thời đại mới đối với thơ và nhà thơ. Thơ hiện đại ngoài chất trữ tình cần có chất thép và nhà thơ cần phải biết xung phong, đứng ở vị trí mũi nhọn cuộc chiến đấu của nhân dân. Điều mà Bác quan niệm là một ý kiến mới mẻ, sâu sắc về nghệ thuật thơ hiện đại: cần coi trọng tính chiến đấu của thơ, cần đề cao vai trò chiến sĩ, tư cách công dân tiến bộ của nhà thơ.
Tại sao thơ hiện đại nên có thép? Tại sao nhà thơ cũng phải biết xung phong? Thơ phải có ích cho đời, có ích cho nhân dân. Khi mà nhân dân đang rên xiết trong lầm than, đau khổ, khi đất nước đang bị ngoại bang thống trị, ngọn lửa cách mạng đang bùng cháy khắp nơi, thì thơ ca không thể là một thứ phù phiếm lúc trà dư tửu hậu, nhà thơ không thể là con người “đem gấm vóc phủ lên xã hội điêu tàn “. Khi mà “nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước là nhiệm vụ trước tiên của Đảng ta” của dân tộc ta, thì thơ ca phải trở thành vũ khí của nhà thơ lên án cường quyền và đấu tranh cách mạng. Xưa kia, tổ tiên, ông cha ta đã quan niệm rằng “Văn chương ăn nhập với thế nước tục dân” (Bùi Huy Bích); nhà thơ quyết “Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà” (Nguyễn Đình Chiểu). Lúc đất nước đứng trước hoạ xâm lăng thì “Văn chương phải có thế trận đuổi nghìn quân giặc ” (Trần Thái Tông), và “Thư sinh giết giặc bằng ngòi bút” (Tùng Thiện Vương). Thơ ca hiện đại kế thừa tinh hoa thơ ca cổ điển dân tộc, nó phải hàm chứa chất thép, mang tính chiến đấu sắc bén, nêu cao lòng yêu nước, căm thù giặc: “Văn hoá nghệ thuật cũng là một mật trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy. Cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ nhất định, tức là phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân” (Hồ Chí Minh).
Nhà thơ trong quá trình sáng tạo cái đẹp, ngợi ca cái mới, cái tiến bộ nảy sinh trong cuộc đời, họ phải ý thức được rằng, mình là nghệ sĩ của nhân dân, ngòi bút và trang thơ cần thể hiện tư cách công dân. Không phải chỉ: “Nay ở trong thơ nên có chất thép “, mà nhà thơ còn phải đem hồn thơ mình:
“Cao giọng hát những bài ca chính khí,
Của anh hùng đã vì nước quên mình…
Là thi sĩ nghĩa là theo gió mới
Tìm ý thơ trên ngọn sóng Bạch Đằng
Để tâm hồn dào dạt với Chi Lăng
Làm bất tử trận Đống Đa oanh liệt… “
(Sóng Hồng)
“Cảm tưởng đọc Thiên gia thi” cùng với “trăm bài trăm ý đẹp” khác, được Hồ Chí Minh viết trong cảnh tù đày, như là bức minh hoạ cho quan niệm làm thơ của Bác. Thơ “Ngục trung nhật kí” sáng ngời chất thép! Trong những tháng ngày “ác mộng” bị đày đoạ, bị giải lui giải tới khắp các nhà lao tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc, Bác đã thể hiện một tâm thế “đại vô uỷ “. Và sức mạnh tinh thần của người chiến sĩ cách mạng tạo nên chất thép trong nhiều bài thơ. Mở đầu tập thơ, Bác khẳng định: “Thân thế ở trong lao – Tinh thần ở ngoài lao”. Con đường cách mạng đầy gian nan thử thách; người cách mạng lấy thử thách nguy nan để rèn luyện tinh thần bất khuất, hiên ngang:
“Nghĩ mình trong bước gian truân,
Tai ương rèn luyện tinh thần thêm hăng”.
(Tự khuyên mình)
Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Bản lĩnh của người chiến sĩ trong đoạ đày là thứ vàng mười đích thực. “Sống khác loài người vừa bốn tháng – Tiêu tuỵ còn hơn mười năm trời”. Tóc bạc, răng rụng, ghẻ lở mọc đầy thân, nhưng Bác đã vượt qua với tất cả sức mạnh tinh thần: “Kiên trì và nhẫn nại – Không chịu lùi một phân – Vật chất tuy đau khổ — Không nao núng tinh thần” (Bốn tháng rồi). Đó là chất thép.
“Ngục trung nhật kí” mang tính hướng nội, Bác viết cho mình đọc, tự an ủi, tự nâng đỡ tâm hồn, tự động viên mình nêu cao dũng khí… Có lúc chất thép là tiếng cười hóm hỉnh, phủ định nghịch cảnh. Chân mang nặng xích xiềng mà cảm thấy “mỗi bước leng keng tiếng ngọc rung”. Bị đày đoạ trong ngục tối đầy muỗi, rệp mà “mơ thấy cưỡi rồng lên thượng giới “. Phong thái ung dung, ấy là chất thép của người chiến sĩ trên con đường khổ ải: “Nghênh diện thu phong trận trận hàn,… Hành nhân thi hứng hốt gia nồng ” (Tảo giải).
Thơ nên có thép. Nhà thơ cũng phải biết xung phong. Bản chất của thơ là cuộc sống và tình cảm. “Văn học không là gì cả nêu không vì cuộc đời mà cố ” (Tố Hữu). Nhà thơ là kẻ sĩ, là nghệ sĩ… trước hết là công dân. Mỗi một thời kì lịch sử, đều có những yêu cầu cụ thể khác nhau đối với nhà thơ, nhưng ở bất cứ đâu, lúc nào, “thơ ca phải có ích cho đời”, nó là muối mặn, phù sa của cuộc sống, là màu xanh của mùa xuân, là nhan sắc và tình yêu của thiếu nữ, là hi vọng cho lương tâm, và hạnh phúc cho mọi người. “Thơ trước hết là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật ” (Bi-ê-lin-xki), do đó, thơ phải hiện thực, thơ phải có chất thép. Thuở mất nước, cả dân tộc là vong quốc nô, các nhà chí sĩ khẳng định thơ văn là vũ khí sắc bén: “Bút lưỡi muốn xoay dòng nước lũ” (Phan Châu Trinh, “Một ngòi lông vừa trống vừa chiêng- Cửa dân chủ khêu đèn thêm sáng chói” (Phan Bội Châu). Thời kháng chiến “Thơ là súng là gươm” (Lê Anh Xuân). Sứ mệnh của nhà thơ vô cùng cao cả, thiêng liêng:
“Vóc nhà thơ đứng ngang tầm chiến lũy,
Bên những dũng sĩ đuổi xe tăng ngoài đồng và hạ trực thăng rơi”
(Chế Lan Viên)
Tôi cùng xương thịt với nhân dân của tôi,
Cùng đổ mồ hôi, cùng sôi giọt máu;
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu gian lao”.
(Xuân Diệu)
Thơ ca cũng như nghệ thuật phải có tính khuynh hướng; nhà thơ phải thể hiện cái yêu, cái ghét vào câu thơ, vần thơ. Quan điểm thơ nên chất thép, thơ mang tính chiến đấu, nhà thơ cũng phải biết xung phong của Hồ Chí Minh bắt nguồn sâu xa trong truyền thống thi ca của dân tộc, từ những hịch, những cáo… của tổ tiên nghìn xưa. Thơ ca không chỉ góp phần chấn hưng đạo đức, bồi dưỡng tính tình mà còn để góp phần đánh giặc, giữ nước. Ta tự hào về những thơ “Thần”, về “Thuật hoài”, về ‘Tụng giá hoàn kinh sử”… của những anh hùng thi sĩ thời Lý, thời Trần. Ta khắc vào trái tim những vần thơ của Nguyễn Trãi:
“Vệ Nam mãi mãi ra tay thước,
Điện Bắc đà đà yên phận tiên “.
(Bảo kính cảnh giới – 56)
Thơ ca dân tộc như một dòng sông lớn mênh mông; mỗi nhà thơ như một con sóng trên dòng sông ấy, chở phù sa làm nên những bình nguyên tươi đẹp của nền văn hiến Việt Nam. Tính nhân dân của văn học đòi hỏi thơ ca phải có thép:
“Dùng cán bút làm đòn chuyển xoay chế độ,
Mỗi vần thơ: bom đạn phá cường quyền “.
(Sóng Hổng)
Vì thơ văn “là tiếng nói của tình cảm, là hình thức nhuần nhuỵ và sắc bén của tư tưởng, có tác dụng sâu rộng và lâu bền “; nên thơ cần có thép, nhà thơ phải là người chiến sĩ trên mặt trận văn hoá.
Nhìn rộng ra ngoài bờ cõi, ta thấy tính chiến đấu làm nên giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật đích thực của thơ ca. Thơ ca phải có ích, nghệ thuật phải vì hạnh phúc của con người… được nhiều nhà nghệ sĩ thế giới quan tâm, coi trọng. “Vĩ đại thay là sứ mệnh của thơ cạ!… Trong ngục tối, thơ trở thành quật khởi; bên cửa sổ bệnh viện thơ là khao khát và hi vọng lành bệnh… Thơ không phải là nhìn nhận mà còn tu sửa. Ở mọi nơi, thơ phủ nhận bất công. Hỡi nhà thơ thiệp sứ, hãy cất lờica và đi tới tương lai! Lời ca của người là phản ánh niềm tin và hi vọng của nhân dân” (Bô-đơ-le). “Thơ như bài hát ru, ngây ngất đường giường thơ bé – Như mơ ước mùa xuân, như khát vọng chiến công… Thơ như đôi cánh nâng tôi bay – Thơ là vũ khí trong trận đánh! (Gam-za-tốp) v.v…
Thơ ca làm đẹp cuộc sống nhân loại. Con người văn minh không thể thiếu thơ ca. Mỗi người có những yêu cầu riêng đốỉ với thơ ca, mỗi dân tộc có một truyền thống, một bản sắc riêng về thơ ca của đất nước mình. Nhưng thơ phải có ích, “Trong nghệ thuật, tất cả những gì không có ích đều có hại”. Thơ phải có tính chiến đấu, nhà thơ nhải thanh cao và tiến bộ,… đó là niêm mong ước và sự đòi hỏi của nhân dân. Hồ Chí Minh đã kế thừa và có một cách nói rất hay, sâu sắc về quan niệm thơ ca, về sứ mệnh của thi sĩ. Thơ nên có chất thép nhưng thơ phải hay. Thơ nên có chất thép nhưng thơ cũng phải giàu chất trữ tình. Nếu không, thơ sẽ khô khan. “Ngục trung nhật kí” nói riêng cũng như toàn bộ thơ ca của Bác đều hướng về độc lập, tự do và hạnh phúc của dân tộc. “Biết Người việc nước không hề nghỉ — Vung bút thành thơ đuổi giặc thù!” (Bùi Bằng Đoàn). Giáo sư Đặng Thai Mai viết: “Thơ của Bác thật sự là thơ, là thơ của thời đại mới, vì thơ Bác bao hàm hai yếu tố hoà hợp với nhau một cách rất nhuần nhuỵ: chất trữ tình và chất thép”.
“Vẩn thơ của Bác vần thơ thép,
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình”
(Hoàng Trung Thông)
Tóm lại, ý thơ trên đây của Bác về chất thép trong thơ, về sứ mệnh thơ ca, sứ mệnh thi sĩ không chỉ có tác dụng định hướng và bối dưỡng sáng tác cho văn nghệ sĩ Việt Nam mà còn giúp mỗi chúng ta trong cảm thụ thơ ca, cảm thụ cái đẹp củạ nghệ thuật, để nâng tâm hồn mình cùng với ngọn gió thời đại. Văn là người. Văn thơ Hồ Chí Minh là đạo đức, tư tưởng, tình cảm, là nhịp sống sôi nổi, phong phú của Người. “Ngục trung nhật kí” đã phản ánh một cách chân thật và cảm động một tâm hồn lớn, một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn của người chiến sĩ vĩ đại trong cảnh tù đày. Dũng khí ấy làm nên chất thép của hồn thơ Hồ Chí Minh, hồn thơ chiến sĩ, để sau này Người viết nên những “vần thắng vút lên cao!”.