fbpx
Home Tài liệu luyện thi Môn Văn Đời thừa – Một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao (Bài 1)

Đời thừa – Một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao (Bài 1)

0

Đề bài: Đời thừa – một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám.

Bài làm

Trong cuộc đời cầm bút của mình, Nam Cao luôn suy nghĩ, trăn trở về cuộc sống và viết. Điều này thể hiện rõ nét trong tác phẩm của ông suốt từ trước đến sau Cách mạng, trở thành hệ thống quan điểm sáng tác của ông. Nhiều tác phẩm của ông được coi là tuyên ngôn nghệ thuật với những quan điểm tiến bộ và sâu sắc. Trong đó, Đời thừa là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước Cách mạng tháng Tám.

Nói đến tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao trước cách mạng, người ta thường nghĩ đến Trăng sáng. Song quan điểm nghệ thuật được Nam Cao phát biểu thành hệ thống và có chiều sâu tư tưởng thì phải nói đến Đời thừa chứ không phải Trăng sáng.

Nếu như trong Trăng sáng, nhà văn phê phán nghệ thuật lãng mạn thoát li trốn tránh trách nhiệm, trốn tránh cuộc đời, ông coi đó là ánh trăng lừa dối, thì đến Đời thừa ông còn phê phán cả lối tả chân hời hợt, chỉ tả được cái bề ngoài xã hội. Với quan điểm nghệ thuật chân chính phải trở về với cuộc đời thực. Hộ (người phát ngôn của Nam Cao) đã có những nhận xét đích đáng về cuốn Đường về. Cuốn “Đường về” chỉ có giá trị địa phương thôi, các anh có hiểu không? Người ta dịch nó vì muốn biết phong tục của mọi nơi. Nó chỉ tả được cá bề ngoài của xã hội. Tôi cho là xoàng lắm! Như vậy, Nam Cao không chỉ đối lập văn chương giả dối với văn chương chân thực mà còn phân biệt cái chân thực bề ngoài với chân thực có chiều sâu trong nghệ thuật. Điều này thể hiện tư tưởng mới mẻ và sâu sắc của ông.

Không tán thành loại sáng tác chỉ tả được cái bể ngoài của xã hội, Nam Cao cho rằng một tác phẩm thật giá trị thì phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… nó làm cho người gần người hơn. Đây chính là điều cốt lõi làm nên giá trị đích thực của một nền văn học lớn. Trong lúc xã hội thuộc địa nửa phong kiến đầy hỗn loạn, văn chương thật – giả lẫn lộn, nhà văn bị cơm áo ghì sát đất, vậy mà vẫn có một Nam Cao trong sáng vô ngần, trung thực vô ngần (Tô Hoài) và đầy tâm huyết với nghiệp văn, thật đáng quý biết bao. Nhiệt tình, tâm huyết và trách nhiệm của người cầm bút đã khiến ông có những suy nghĩ nghiêm túc đầy tiến bộ về nghệ thuật đích thực. Văn chương của ông hướng tới lòng yêu thương con người, tình bác ái, sự công bằng. Nó là mục đích cao cả là giúp cho người gần người hơn. Thì ra sứ mệnh mà cuộc sống giao cho nhà văn, giao cho tác phẩm của ông thật lớn lao. Nhà văn phải làm cho con người gần gũi nhau hơn, yêu thương nhau hơn. Đó cũng chính là ý nghĩa văn học là nhân học vĩ đại trong tư tưởng Nam Cao.

Và sự thực Nam Cao cũng đà làm được điều mình nói. Trong tác phẩm của mình, không ít lần ông vẽ nên những cảnh tượng xót thương, đau lòng rồi thổi lên trong lòng người đọc sự xót xa, nuối tiếc, sự yêu thương, căm giận, cảm thông. Ta xót thương cho cái chết của Lão Hạc bao nhiêu thì ngậm ngùi cho đám cưới của Dần bấy nhiêu, đau đớn, day dứt khôn nguôi cho cái chết của Chí Phèo trên con đường trở lại hoàn lương bao nhiêu thì căm ghét xã hội thuộc địa phong kiến vô nhân đạo bấy nhiêu và cảm thông vô cùng với những trí thức như Điền ( Trăng sáng), Hộ (Đời thừa) những con người có ước mơ hoài bão lớn nhưng lại bị áo cơm ghì sát dất.. Điều này chỉ có được khi trong thẳm sâu trái tim của người viết có tình yêu thương trân trọng con người vô hạn. Nỗi niềm day dứt về con người, tình yêu thương ấy qua quá trình thai nghén đã trào dâng lên ngọn bút để viết nên những tác phẩm bất hủ của lòng nhân đạo.

Cũng qua nhân vật Hộ, Nam Cao dã phát biểu rất hay về yêu cầu tìm tòi sáng tạo của nghề văn và lương tâm của người cầm bút: Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp được những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có.

Trước hết, Nam Cao lên tiếng phủ nhận những nhà ván được gọi là những người thợ khéo tay – những người chỉ biết bắt chước người khác. Đó là những nhà văn chỉ chuyên chú gọt đẽo ngôn từ tạo nên thứ văn chương đơn giản là văn chương rập khuôn. Thực chất đó chỉ là thứ văn chương nông cạn, hời hợt, lặp lại, sáo mòn theo một khuôn mẫu đã có trước đó. Bản chất đích thực của văn chương là sự sáng tạo: Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu tìm tòi, khơi nhưng nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có. Văn chương không cho phép bất cứ sự lặp lại nào. Nghệ thuật là một quá trình chọn lọc khắc nghiệt. Vì vậy, muốn tác phẩm của mình không bị đào thải thì nhà văn phải có quá trình tìm tòi, sáng tạo. Con đường lao động nghệ thuật của các nhà văn là con đường lao động chân chính, lao động thực thụ.

Khi Nam Cao đòi hỏi mỗi nhà văn phải khơi những nguồn chưa ai khơi là ông muốn nhà văn phải tìm đến những gì chưa ai phát hiện ra. Cuộc đời dường như là một dòng sông lớn. Nơi ấy đã có những mạch nguồn hiện hữu, nhưng nơi ấy vẫn hãy còn rất nhiều những mạch nguồn tiềm ẩn mà nhiệm vụ của nhà văn là phải khám phá những mạch nguồn này. Đó quả là một nhiệm vụ không dễ đàng gì đòi hỏi ờ nhà văn tài năng và một tinh thần lao động thực sự — một sự cống hiến và tàm huyết nghề nghiệp.

Tim tòi ra những chân lí nghệ thuật này hẳn Nam Cao cũng đã trải qua quá trình suy nghĩ, trăn trở của một nhà nghệ thuật tâm huyết. Tư tưởng ấy trở thành chân lí nghệ thuật nói chung và chân lí trong văn chương nói riêng cho mọi thời đại ở mọi nền văn học.

Cuộc đời lao động của Nam Cao là tấm gương sáng cho những nỗ lực tìm tòi, khám phá giàu giá trị sống mãi cung thời gian: Chí Phèo, Đời thường… Trong hiện thực mới mẻ nhất mà Nam Cao khám phá đó là sự tha hóa về nhân phẩm: Hình ảnh người lao động bị xã hội phong kiến thực dân hủy hoại cả nhân hình, nhân tính (Chí Phèo), ngươi trí thức có hoài bão lớn, có ý thức về lẽ sống tình thương nhưng lại vi phạm vâo chính những lẽ sống tình thương đó và cẩu thả, đê tiện trong nghề nghiệp (Hộ – Đời thừa)… Đây là điểm mới mà các nhà văn hiện thực trước đó mới chỉ ra được sự bần cùng, quá trình đói cơm rách áo của người nông dân, người trí thức mà thôi. Đồng thời, một điển hình mới mẻ, tiến bộ nữa trong sáng tác của Nam Cao là thấy được quá trình thức tỉnh lương tâm làm người của Chí Phèo, quá trình thức tỉnh nhận ra mình là một người thừa, một kẻ khốn nạn ở Hộ… Ngoài ra, nếu như trước đây, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố đem đến cho chúng ta những nhân vật thiên về hành động, những cuộc đấu tranh diễn ra hàng ngày trên bề mặt cuộc sống thì Nam Cao lại chủ động đi vào nội tâm nhân vật với rất nhiều vui buồn, đau đớn, xót xa, ân hận. Cả người nông dân và người trí thức của Nam Cao đều rất giàu nội tâm…

Như vậy Nam Cao không những có quan điểm chân chính, ông còn thực hiện những quan điểm ấy một cách xuất sắc. Điều đó làm nên sự vĩ đại của nhà văn Nam Cao – một nghệ sĩ lớn – một trái tim lớn. Và cũng cần khẳng định rằng hơn bất cứ ở đâu, truyện ngắn Đời thừa cho thấy đầy đủ nhất những quan điểm nghệ thuật sâu sắc, tiến bộ của Nam Cao.

Comments

comments