fbpx
Friday, March 29, 2024
HomeTài liệu luyện thiMôn VănPhân tích bài thơ "Thề non nước" (Tản Đà)

Phân tích bài thơ “Thề non nước” (Tản Đà)

Đề bài: Phân tích bài thơ “Thề non nước” của thi sĩ Tản Đà.

Bài làm

Tản Đà (1889 — 1939) có câu thơ tuyệt bút:

“Tài cao, phận thấp, chí khí uất,

Giang hồ mê chơi quên quê hương”.

(Thăm mả cũ bên đường)

Người đọc xưa nay vẫn tìm thấy bóng dáng Tản Đà qua vần thơ ấy. Tên là Nguyễn Khắc Hiếu, lấy núi Tản, sông Đà làm bút danh. “Giấc mộng con”, “Giấc mộng lớn”, “Khối tình con”, “Thề non nước” là những tác phẩm nổi tiếng của Tản Đà. Chất tài hoa tài tử, lãng mạn, giang hồ… in đậm trong thơ, văn Tản Đà. Những năm hai mươi của thế kỉ XX, Tản Đà là thi bá trên thi đàn Việt Nam. Ông được nhà văn Hoài Thanh trân trọng ngợi ca là “Người của hai thế kỉ”, vì thơ văn của Tản Đà chính là gạch nối giữa hai nền văn học của dân tộc: cổ điển và hiện đại.

Bài thơ “Thề non nước” là một kiệt tác của Tản Đà. Bài thơ nằm trong truyện ngắn cùng tên, được Tản Đà sáng tác năm 1921. Cô đào Vân Anh và một du tử — hai nhân vật trong truyện, ngồi uống rượu, cùng nối lời nhau, làm thơ vịnh bức tranh sơn thủy – bức cổ hoạ — có ba chữ triện, chữ Nôm “Thề non nước” mà thành bài thơ này. Bức cổ hoạ chỉ có một dãy núi, không có vẽ sông nước, dưới chân núi có một ngàn dâu gợi cảnh tang thương biến đổi. Bài thơ viết bằng thể thơ lục bát, gồm có 22 câu thơ. Bốn câu đầu là lời vịnh của du khách, 10 câu tiếp theo của cô đào Vân Anh, 6 câu nối tiếp là lời của du khách, 2 câu cuối là tiếng thơ của Vân Anh.

Ngoài những chi tiết nghệ thuật vịnh bức cổ hoạ, bài thơ “Thề non nước” còn ca ngợi một mối tình chung thuỷ sắt son của đôi lứa, đồng thời gửi gắm một tình yêu nước thầm kín sâu nặng.

Hình ảnh bức tranh sơn thủy. Nói là bức tranh sơn thủy nhưng không có “thủy” vì “Nước đi đi mãi không về cùng non”. Chỉ có núi, một dãy “Non cao những ngóng cùng trông”. Có cây mai già trụi lá trơ cành (xương mai). Có sương tuyết và mây phủ dày trên đỉnh núi. Có ngàn dâu xanh tốt dưới chân núi gợi màu tang thương biến đổi. Bao phủ toàn bức tranh là màu vàng tà dương:

“Trời tây ngả bóng tà dương,

Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha”.

Có thể nói, đó là một bức tranh cổ rất đẹp mà buồn, thấm đượm cái tình thương nhớ, tang thương.

Nước non nặng một lời thề. Cũng như thuyền và bến, trong bài thơ này “non” và “nước” là hình ảnh ẩn dụ tượng trưng cho lứa đôi, cho trai và gái, cho giai nhân và người tình chung. Lứa đôi, non và nước đã yêu nhau, đã thề nguyền, đã “nặng lời thề”. Lời thề sâu nặng và sắt son, bền vững như non như nước. Cảnh ngộ thật éo le và đáng thương. Lứa đôi đang trải qua những năm dài li biệt “Nước đi chưa lại, non còn đứng không”. Khi ngắm nhìn bức tranh, du khách đã cảm động nói: “núi tương tư”

Sau những năm dài đợi chờ, thương nhớ và đau buồn, giai nhân (non) đã trở thành nàng cô phụ “non còn đứng không”. Khóc than thảm thiết, bao nhiêu nước mắt đã khô cạn: “Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày”. Thân hình tiều tuỵ đáng thương như một gốc mai già trụi lá trơ cành: “Xương mai một nắm hao gầy”. Mái tóc xanh mềm mại như mây ngày nào, nay đã bạc trắng: “Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương”. Tình lang đi mãi chưa về, giai nhân tuổi mỗi năm một cao, đã chiều tà ngả bóng, nhan sắc phai tàn. Còn đâu nữa “vẻ ngọc” và “nét vừng” thời con gái xa xưa: “Trời tây ngả bóng tà dương – Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha”.

Tản Đà đã sáng tạo nên những hình ảnh ẩn dụ để đặc tả nỗi buồn cô đơn, tương tư của giai nhân. Có không ít câu thơ trong bài “Thề non nước” vừa đẹp vừa hay không thua kém những câu Kiều của Nguyễn Du. “Tóc mây”, “xương mai”, “nét vàng”, “vẻ ngọc”, đặc biệt “suối khô dòng lệ”… là những hình ảnh mĩ lệ nói về sắc tài và bi kịch trong tình yêu của giai nhân. Còn nước mắt đâu nữa mà “tuôn”. Chữ “khô” thể hiện cách chọn từ, dùng từ của Tản Đà rất tinh luyện”, chính xác.

Chẳng cần xem bức hoạ mà chỉ đọc vài câu thơ cũng thấy như hiện ra trước mắt chúng ta một cái “núi tương tư” vậy:

“Non cao nhữn ngóng cùng trông,

Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày.

Xương mai một nắm hao gầy,

Tóc mây một mái đã đầy tuyết sương.

Trời tây ngả bóng tà dương,

Càng phơi vẻ ngọc, nét vàng phôi pha”.

Càng tương tư càng tủi hờn: “Non còn nhớ nước, nước mà quên non”. Nhưng nàng cô phụ vẫn đinh ninh lời thề:

“Dù cho sông cạn đá mòn

Còn non còn nước hãy còn thể xưa”.

“Dù… hãy…” niềm tin được khẳng định. “Sông cạn đá mòn” là một thành ngữ, nêu lên một giả định không bao giờ có thể xảy ra. Và cho dù có xảy ra trong muôn một, thì giai nhân vẫn son sắt thủy chung “hãy còn thề xưa”. Ba chữ “còn” được láy lại trong vần thơ đã thể hiện sâu sắc, cảm động mối tinh son sắt, thủy chung, bền đẹp của nàng cô phụ.

Nước đã đi xa, tình lang đã đi xa, chỉ còn lại tiếng đồng vọng trong không gian và thời gian li biệt. Hẹn ngày trở lại, hẹn ngày tái ngộ, hội ngộ của lứa đôi. Chia sẻ nỗi buồn, an ủi tình nhân:

“Non cao đã biết hay chưa ?

Nước đi ra biển lại mưa về nguồn

Nước non hội ngộ còn luôn,

Bảo cho non chớ có buồn làm chi”.

“Ngàn dâu xanh tốt” như một chứng tích của thời gian, như một nỗi tang thương đã biến đổi, và còn lại như một kỉ vật, vì thế “non thì cứ vui”.

Hai câu kết như sự chung đúc một lời thề, “Thề non nước”:

“Nghìn năm giao ước kết đôi,

Non non nước nước, không nguôi lời thề”.

Đã có lời “thệ hải minh sơn” trong tình sử. Đã có “đám cưới bạc”. Cũng có “đám cưới vàng”… Đời người hữu hạn trăm năm. Nhưng lời thề của “non” và “nước” là lời thề “nghìn năm” kết đôi, thủy chung bền vững. Đó là một lời thề sâu nặng, bền đẹp đến muôn đời.

Nghệ thuật sử dụng biện pháp “phân – hợp” ngôn ngữ của Tản Đà rất điêu luyện để gợi tả và biểu cảm thần tình. “Ngóng trông” được viết thành “những ngóng cùng trông” diễn tả cái dằng dặc của sự đợi chờ, trông ngóng. Trong li biệt, hình ảnh “non” và “nước” nằm ở hai phía không gian — đầu, cuối câu thơ: “Nước đi, đi mãi không về cùng non”. Trong cảnh sum họp, hội ngộ của lứa đôi thì non và nước sẽ thành non non nước nước gắn bó keo sơn, bền vững, lời thề chẳng bao giờ “nguôi”, chẳng bao giờ “quên” được!

Tóm lại, lời thề của non và nước được nói đến một cách thắm thiết, thủy chung và cảm động.

Bài thơ “Thề non nước” là một bài thơ đa nghĩa. Có nội dung vịnh cảnh trong tranh. Có nội dung phong tình cố hữu của Tản Đà. Và còn có tấm lòng tha thiết gắn bó của nhà thơ với Tổ quốc giang sơn trong cảnh ngộ mất chủ quyền. Đầu thế kỉ XX, có một số nhà thơ nói lên lòng yêu nước, một cách thầm kín:

“Có phải tiếc xuân mà đứng gọi

Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ”

(“Cuốc kêu cảm hứng” – Nguyễn Khuyến)

“… Nặng gánh em trở ra về!

Ngoảnh cổ trông sông rộng trời khuya…

Vì chưng nước cạn, nặng nề em dám kêu ai!

(…) Cái bước đêm khuya thân gái ngại ngùng

Nước non gánh nặng, cái đức ông chồng hay hỡi có hay!”.

(“Gánh nước đêm – 4 Trần Tuấn Khải)

“Nọ bức dư đồ thử đứng coi

Sông sông núi núi khéo bia cười

Biết bao lúc mới công vờn vẽ

Sao đến bây giờ rách tả tơi…”

(“Vịnh bức địa đồ rách” – Tản Đà)

Trong bài thơ “Thề non nước”, hai chữ “non” và “nước” xuất hiện ở tần số rất cao: 27 lần, lúc thì nước nhớ non, lúc thì non nhắn nước, lúc thì non non nước nước… Một giọng thơ thiết tha, có không ít câu thơ để lại nhiều ám ảnh:

“Nước đi đi mãi, không về cùng non,”

“Nước đi chưa lại, non còn đứng không,

Non cao những ngóng cùng trông,

Suối khô dòng lệ chờ mong tháng ngày”…

“Non còn nhớ nước, nước mà quên non..”.

Có đặt bài thơ “Thề non nước” bên cạnh các bài thơ “Chim hoạ mi trong lồng”, “Vịnh bức địa đồ rách”, v.v… ta mới thấy tình yêu nước được nhà thơ kín đáo gửi gắm vào các chữ “nhớ nước”, “quên non”. Tình yêu nước dào dạt cả bài thơ. Dưới ách thống trị tàn bạo của thực dân Pháp, trên thi đàn công khai, Tản Đà đã có một cách nói thật hay, thật xúc động về tấm lòng gắn bó thiết tha với giang sơn Tổ quốc. Trong thời Pháp thuộc, bài thơ “Thề non nước” như một vạch nối dẫn dắt người đọc, nhất là thế hệ thanh niên cảm nhận sâu hơn những vần thơ của Phan Bội Châu, của Phạm Tất Đắc, v.v…

“Bâng khuâng đỉnh núi chân ngàn

Khói tuôn khí uất, sóng cuồn trận đau”.

(“Hải ngoại huyết thư” – Phan Bội Châu)

“Nghĩ thân thế héo hon tấc dạ

Trông non sông la chã dòng châu…”

(“Chiêu hồn nước” Phạm Tất Đắc)

Tóm lại, “Thề non nước” là một bài thơ kiệt tác của thi sĩ Tản Đà. Sắc điệu trữ tình dào dạt trong những vẫn thơ nói về sự thương nhớ, chờ mong. Chờ người yêu nặng lời thề, xa vắng. Nhớ hồn nước bơ vơ. Các biện pháp tu từ ẩn dụ, nhân hoá, điệp từ điệp ngữ, biện pháp phân – hợp v.v… đã tạo nên những câu thơ lục bát tuyệt hay, đọc qua một lần nhớ mãi.

Thi sĩ Tản Đà đã nói hộ chúng ta những tình cảm đang nảy nở trong lòng. “Thề non nước” thể hiện tuyệt đẹp cốt cách phong tình tài hoa của thi sĩ Tản Đà.

Lời thề xưa cứ ngân nga mãi trong lòng ta. Cả một trời yêu thương, mong nhớ, đợi chờ mênh mang:

“Nghìn năm giao ước kết đôi,

Non non nước nước không nguôi lời thề”.

Comments

comments

RELATED ARTICLES

Most Popular